Mỗi vùng miền đều có những món ăn đặc trưng, đặc sản mang nét độc đáo, phong vị riêng theo khí hậu và địa lý thổ nhưỡng. Ngoài ra, tùy theo tính cách, lối sinh hoạt của con người từng vùng, từng miền mà ẩm thực cũng có sự khác nhau trong cách chế biến và thưởng thức. Ba miền Tổ quốc trải dài từ Bắc đến Nam không nơi nào là không được thiên nhiên ưu đãi tốt cho “cái sự ăn uống” của con người. Nếu như miền Bắc tiêu biểu có canh rau đay cua đồng ngon ngọt ăn với cà pháo chấm mắm tôm; miền Trung có cơm Hến, bún bò Huế thì vùng đất miền Nam phóng khoáng lại có món canh chua đi kèm với cá kho tộ. Mà khi nhắc đến món cá kho nói chung là là nhắc đến một món ăn có thể nói là chủ lực, khó có thể thiếu trong các bữa ăn gia đình Việt. Theo dân gian, khi vừa mới khỏi bệnh mà ăn cá kho (không kể đến các món khác) là tốt nhất, lành nhất, không sợ trúng thực hay dị ứng…Vùng đất phương Nam sông suối, kênh rạch chằng chịt cung cấp ngồn nước quanh năm, đồng thời cũng phục vụ nguồn thủy sản dồi dào phong phú, đa dạng với nhiều chủng loại. Nhiều nhất vẫn là cá, rồi đến tôm, cua… Vì thế ở nơi đây cũng không thiếu nhiều phương thức chế biến độc đáo. Riêng đối với cá có nhiều cách như nấu cháo, nấu cach chua, chiên, nướng, kho… nhưng tiêu biểu nhất vẫn là món kho. Người dân Nam bộ có một kiểu kho đặc trưng mà chúng ta thường gọi là kho tộ. Nói đến cá kho tộ thì đầu tiên phải đề cập đến là cái tộ, tộ ở đây thường là cái tô đất hay nồi đất và chỉ có kho trong tộ đất thì cá mới ngon, mới mang hương vị “nguyên chất” mà không một loại nồi, niêu, xoong chảo nào có được. Cá kho trong chiếc tộ đất phản ánh một thời lưu dân vào miền đất mà dưới sông cá lội trên trời chim bay, muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh như bánh canh khai phá, mở mang bờ cõi khi mọi thiếu thốn về phương tiện, sinh hoạt vật chất của cuộc sống gia đình. Ngày nay, chiếc tộ đất dùng để kho cá thường thấy nhất ở các miền quê, ở thành thị thì hầu như ít thấy bởi sự phồn hoa đô hội với những dụng cụ hiện đại đã trở thành một phần trong cuộc sống, không thể thiếu được. Có chăng những vật dụng “nhà quê” ấy chỉ xuất hiện một cách âm thầm lặng lẽ trong các nhà hàng, những quán ăn của gia đình muốn lưu giữ, cất giấu một giá trị, một văn hóa đang mất dần theo lớp bụi vô tình của thời gian.Các loại cá dùng để kho tộ thì có rất nhiều, nhưng trải qua sự chọn lựa, chắt lọc thì phải nhận định rằng không phải loại cá nào cũng có thể đáp ứng được, cuối cùng thì chỉ có các loại như cá bông lau, cá lóc, cá trê vàng, cá rô, hay cá kèo… được coi là ngon và thích hợp nhất.Cá kho tộ ai cũng làm được. Nhưng đừng vì vậy mà lầm tưởng rằng để thực hiện được món cá kho tộ sao cho ngon, sao cho bổ là dễ dàng. Thực ra nó phức tạp và cầu kỳ, lắm kiểu, nhiều cách. Tùy theo từng loại cá đem kho sẽ có một hương vị khác nhau, tùy theo gia vị và cũng tùy theo khẩu vị từng địa phương mà mỗi người sẽ cho ra một “sản phẩm” mang phong vị riêng “đóng dấu chất lượng” của mình.Thường khi kho tộ, cá được chọn như thế nào cũng được, không câu nệ. Song để có một món cá kho ngon nhất, thì cũng giống như nhiều món ăn khác, phần chọn nguyên liệu là cả một quá trình công phu. Kinh nghiệm của nhiều người, nhiều chuyên gia về ẩm thực cho rằng, cá phải to một chút, không lớn quá cũng không nhỏ quá. Lớn quá thì cá không được săn dễ mềm nhìn không ngon, cá nhỏ quá thì lại dễ nát và nhiều xương gây mất thiện cảm từ cái nhìn đầu tiên. Cá vừa vừa thì thịt chắc, ít xương, cá loại này khoảng từ 400 – 500 gram một con là vừa nhất, tuy nhiên cũng tùy theo từng người thực hiện mà có cách lựa chọn khác phù hợp hơn. Khi làm cá, ta không nên lạn bỏ phần da có vảy mà phải cạo bỏ vảy, nếu không cá sẽ nhìn không ngon.Tùy theo sở thích của từng người mà cá đem kho có thể đề nguyên con hoặc xắt thành từng khoanh. Nếu là cá kèo thì để nguyên con tốt hơn, các loại cá lóc, cá trê, bông lau… xắt khoanh. Ướp cá với nước mắm thật ngon, nêm nếm gia vị cho vừa ăn như bột ngọt, muối, đường… đặc biệt khi kho cá nên cho nước màu. Nước màu có thể được làm từ đường tự thắng với nước nắm được làm tại nhà hoặc ra chợ mua. Tuy nhiên, để cá cho kho ngon, béo, mềm và đậm đà hương vị chúng ta nên sử dụng loại nước màu được chế biến từ nước dừa, bởi nước màu dừa này thơm và ngọt, không đắng như nước màu được làm từ đường. Sau đó đợi từ 5 – 10 phút cho cá ngấm đều gia vị rồi mới đem kho.Kho cá không nên kho bằng bếp ga hay bếp dầu vì nó không còn gì để gọi là phù hợp cả với lại cá sẽ mất đi 40% – 60% hương vị nguyên chất ban đầu. Cứ thử nghĩ cá kho trong một cái tộ bằng đất chân chất đậm nét chân quê mà lại bắc lên một cái bếp hiện đại, nhìn cứ chướng mắt làm sao, trông chẳng khác gì “râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Cá kho tốt nhất là kho bằng củi hay than củi bắc trên cái kiềng, cái cà ràng hoặc ba ông đầu rau chụm lại. Nói để cho chúng ta thấy rằng không phải là cầu kỳ hay khó tính trong việc này mà vì phải đưa nó trở về với nguyên bản xa xưa vốn có của nó, cái thời mà ông cha ta mới đến khai hoang lập nghiệp. Giữ nguyên cái bản sắc ấy mới thấy thú vị, thấy ấm lòng người, ấm lòng quê hương.Khi cá kho sôi lên độ chừng 3 – 5 phút là ta bắt đầu canh lửa lớn để tộ cá sôi mạnh hơn cho đến khi gần cạn nước thì mình bớt lửa lại, cho vào nồi cá một ít dầu ăn hoặc mỡ nước để cá bóng đẹp và săn chắc. Giai đoạn này khá quan trọng, chúng ta nên canh cẩn thận nếu không cá sẽ bị khét. Tùy từng người muốn ăn nhiều nước hay ít mà chúng ta canh nước cho vừa. Lúc này nên cho vào tộ cá kho vài trái ớt hiểm tươi hoặc ớt sừng xắt lát để tạo hương vị cho món cá kho tộ thêm đậm đà. Trong quá trình kho, khi nào cần lửa lớn, lúc nào để lửa riu riu thì cũng là một bí quyết cho món cá thêm ngon. Khi cá sắp được rắc thêm tiêu tán nhỏ để dậy thêm mùi thơm cho món ăn.Ăn kèm với cá kho tộ, như nhắc ở trên phải có món canh chua nấu vừa chua chua, ngọt ngọt của cá, lá giang, của đường, của dứa, cà chua… hòa quyện với cái cay cay của ớt thật hấp dẫn, quyến rũ. Ở nhiều nơi món cá này dùng chung với rau sống. Rau sống có thể là lá xoài non, dứa (thơm), dưa leo, rau cần nước, dưa bồn bồn, bông và dưa điên điển… các loại rau chấm với nước cá kho thì hết ý, không chê vào đâu được.Còn tuyệt gì hơn khi trong cái không khí oi ả, nóng bức của buổi trưa sau khi làm đồng về đến nhà vừa háo nước, vừa mệt mỏi mà được thưởng thức món cá kho tộ với canh chua thì không có gì thú bằng, bao nhiêu cơm ăn cũng không thấy no, cứ muốn ăn mãi, ăn mãi đến khi vét hết cơm trong nồi rồi mà cứ cảm thấy muốn thêm nữa
Thuyết Minh Về Cách Làm Món Cá Kho Tộ / TOP 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View
Bạn đang xem chủ đề Thuyết Minh Về Cách Làm Món Cá Kho Tộ được cập nhật mới nhất trên website Rafs.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung Thuyết Minh Về Cách Làm Món Cá Kho Tộ hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Thuyết Minh Về Món Nem Rán
Những bài văn mẫu hay lớp 8
Văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về món nem rán gồm các bài văn mẫu hay được VnDoc sưu tầm và tổng hợp giới thiệu tới các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
Thuyết minh về món nem rán
Nem rán từ lâu đã là món ăn không thể thiếu trong mâm cơm tất niên của người Việt và rất được ưa chuộng trong đời sống hàng ngày. Từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, dù được gọi với nhiều cái tên khác nhau nhưng với cách làm đơn giản và hương vị hấp dẫn, nem rán đã trở thành một trong những dấu ấn của ẩm thực Việt Nam.
Về nguồn gốc, nem rán bắt nguồn từ món Dim Sum của Trung Quốc và nhanh chóng trở thành món ăn phổ biến tại hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Tại Hàn Quốc, món ăn này được gọi là Chungwon, Nhật Bản gọi là Harumaki hay Lumpia là tên của nem rán tại Indonesia và Philippines, người Đức gọi là Frühlingsrolle và người Pháp gọi chúng là Rouleau de prin¬temps. Ngay ở Việt Nam, người miền Bắc gọi là nem rán, người miền Trung gọi là chả ram và người miền Nam lại gọi nó là chả giò. Tuy bắt nguồn từ một món ăn Trung Quốc nhưng nem rán đã được Việt hóa và trở thành một món ăn dân tộc, đặc sản tinh túy của ẩm thực Việt Nam.
Có thể được ưa thích và phổ biến rộng khắp trên thế giới như vậy là do nguyên liệu của món nem rán rất phong phú, dễ kiếm và có thể thay đổi linh hoạt. Nhưng chẳng ở đâu nem rán có sự hòa quyện của nhiều nguyên liệu độc đáo như tại Việt Nam. Trong nem rán có sự hóa thân của hạt gạo thành bột mịn tráng lá đa nem, những giọt nước mắm thơm lừng làm từ tôm, cá, có sự hòa quyện của nhiều thực phẩm và hương liệu thiên nhiên.
Sau khi chuẩn bị xong nguyên liệu, chúng ta bắt tay vào sơ chế. Nếu dùng miến thì ngầm nước đến khi mềm thì cắt nhỏ. Mộc nhĩ và nấm hương ngâm nước nóng cho nở đểu, rửa sạch rồi thái nhỏ. Các loại củ rửa sạch, gọt vỏ, thái sợi. Hành và tỏi đập dập, băm nhỏ. Sơ chế xong nguyên liệu, chúng ta trộn đều và nhuyễn tất cả các nguyên liệu trên, nêm cho vừa gia vị, sau đó đập trứng và đảo đều. Trộn đều nguyên liệu không chỉ giúp gia vị ngấm đều, vừa ăn mà còn giúp nguyên liệu quyện vào nhau dễ cuộn hơn và nem cũng chắc hơn. Việc cuộn nem đòi hỏi sự khéo léo sao cho nem tròn đều, không bị rách vỡ. Trước khi cuộn nem nên dấp nước dấm pha loãng đểu khắp lá đa nem. Việc này không chỉ khiến lá đa nem mềm, dễ gói mà còn giúp nem rán vàng và giòn hơn. Sau đó trải đều nhân nem ở chính giữa phía trên, gấp hai bên mép lá đa nem lại rồi cuộn tròn.
So với bước chuẩn bị và sơ chế, công đoạn chế biến nem lại đơn giản hơn. Đặt chảo lên bếp, đổ dầu vào, đợi đến khi dẩu nóng già, chúng ta nhẹ nhàng cho nem vào chảo để rán. Khi rán, phải thật khéo léo cho nem chín đều nhưng cũng không nên lật dở nhiều, dễ bị vỡ nem. Khi nem chín, vàng giòn, tỏa mùi thơm thì gắp ra đĩa.
Món nem rán như thế là đã hoàn thành được một nửa. Khâu quan trọng còn lại là pha nước chấm. Có nhiều người cho rằng nem ngon hay không là do nước chấm. Để có một bát nước chấm ngon nên pha bằng nước ấm và hòa tan đường, mì chính trước. Sau đó mới cho thêm giấm, nước cốt chanh, nước mắm. Bí quyết để có màu đẹp tự nhiên cho bát nước chấm là giã một ít ớt chín đỏ đã bỏ hạt và cho thêm một múi chanh đã tách rời các tép vào. Nên thả ớt, tép chanh này cùng tỏi và rau mùi thái nhỏ vào sau cùng để những gia vị này nổi đều, bát nước chấm sẽ đẹp mắt hơn.
Để món ăn thêm hấp dẫn, trình bày đẹp mắt cũng trở thành một yêu cẩu quan trọng. Chúng ta có thể xếp xung quanh đĩa một lớp cà chua, dưa chuột thái lát tròn, rau sống xếp bên dưới và nem rán đặt bên trên để món ăn có đủ màu sắc hài hòa. Nem rán là món ăn có cách thưởng thức phong phú và đa dạng, nó có thể trở thành món chính trong bữa cơm gia đình, có thể ăn kèm với bún và dưa góp hay trở thành món ăn chơi thông thường…
Không chỉ thơm ngon, món nem còn chứa đựng nhiều giá trị và ý nghĩa quan trọng, về giá trị, đây vừa là món ăn giàu chất dinh dưỡng lại vừa là một mặt hàng ẩm thực thu hút nhiều thực khách trong nước và du khách nước ngoài. Với bạn bè quốc tế, các món ăn như phở, nem, nộm… đã trở thành những dấu ấn hấp dẫn về ẩm thực Việt Nam. Nhưng có lẽ, vẻ đẹp tiềm ẩn bê’ sâu của món ăn này nằm ở ý nghĩa đẹp đẽ của nó. Nguyên liệu đa dạng gợi ra sự phong phú, muôn màu muôn vẻ của cuộc sống. Tất cả lại cùng nhuần nhuyễn vào nhau như sự đồng lòng, gắn bó, đồng điệu giữa con người với con người.
Ẩm thực Việt Nam với chín đặc trưng cơ bản, như nhà sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã thì nem rán giờ đây đã là một món ăn thuần Việt với tính hòa đổng hay đa dạng, ít mỡ, đậm đà hương vị, ngon và lành, tính dùng đũa, tính cộng đồng, hiếu khách, tính dọn thành mâm và đặc biệt nhất chính là tính tổng hòa nhiều chất, nhiều vị. Trong mỗi miếng nem rán thơm ngon không chỉ là sự kì công, cẩn thận của người chế biến mà còn là cả quá trình nỗ lực, khẳng định bản sắc dân tộc trong từng món ăn thức uống.
Bài tiếp theo: Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh ở An Giang
Thuyết Minh Về Món Bánh Xèo Nam Bộ
Bánh xèo có từ rất lâu, không biết nó xuất xứ từ đâu, nhưng bánh xeo hiện nay có mặc ở rất nhiều nơi trên đất nước và ở thế giới nữa. Bánh xèo là một món ăn dân dã, bình dị nhưng bánh xèo nó mang một cái gì đó rất riêng cho dân tộc ta.
Bánh xèo thường hay được mọi người làm bán vào mùa mưa, có lẽ nó ăn rất ấm bụng nên mọi ngoài rất thích. Bánh xèo có nhiều vùng làm khác nhau. Ở miền tây thì bánh xèo được làm rất to, miền trung thì vừa và miền bắc thì hơi nhỏ một tí. Mỗi nơi chọn nguyên liệu giống nhau đều là bọt gạo nhưng nhưn và gia vị thì khác nhau. Gia vị nó tượng trưng cho mỗi vùng miền. Nhưng có vùng thì làm bàng tôm thịt bò, thịt heo nạc… có vùng thì làm nấm và giá công với một tí thịt rất ngon.
ở mỗi vùng với mỗi gia vị nó tượng trưng tính vung miền và thể hiện được những nét đặc sắc văn hóa của họ. Phải chăng đó là cái sở thích của mỗi vùng không phải mà nó chính là nền văn hóa lịch sữ của họ.
Để làm được một chiếc bánh xèo không phải đơn giản tí nào, đó là cả một nghệ thuật. Cách gia bột, trộn bột rất quan trọng nó có thể làm bánh ngon hay dỡ thế nào đều phụ thuộc vào nó. Ta có thể dùng thêm các nguyên liệu khác như nước côt dừ để lấy khuấy bột. Nước dừa này dùng để pha bột nhằm làm tăng độ béo cho bánh. Ta cho khoảng 1 lít nước ấm vào 0,5 kg dừa khô đã nạo, nhào trộn và vắt, lược lấy phần nước cốt để riêng, sau đó cho thêm nước vào phần xác dừa, tiếp tục vắt lấy nước nhì và nước ba.
Bước tiếp theo ta khuấy đều bột gạo với một ít nước ấm và tất cả nước dừa ở trên, cho thêm hành lá xắt nhuyễn và bột nghệ để tạo màu vàng đặc trưng cho bánh. Bổ sung thêm gia vị như muối, đường, bột ngọt. Cũng có thể cho thêm trứng gà đã đánh nhuyễn vào bột để bánh dòn và nở hơn hay bổ sung bột mì để tăng độ dòn của bánh.
Nhưn thì tùy theo sở thích của mỗi người. tôm bóc vỏ để ráo, thịt thái mỏng và ướt gia vị. Sau đó ta sào sơ qua cho thịt và tôm săn lại, vừa chín tới. bên cạnh đó ta có thể cho thêm giá, nấm rửa để ráo. Tí khi làm bánh, ta cho cho vào lên trên bột.
Ăn kèm với bánh gồm có rau sống và nước chấm. Hai món ăn kèm này cũng phải chuẩn bị chu đáo qua việc sơ chế nó. Nước chấm thì ta cho tỏi tươi và ớt được bằm thật nhuyễn, cho vào nước ấm. Thêm đường, nước chanh (hay giấm) và khuấy đều, sau đó cho từ từ nước mắm vào, nêm nếm vừa ăn. Nước chấm ngon cho bánh xèo phải có vị mặn vừa phải của nước mắm hài hòa với vị chua của chanh và vị ngọt của đường. Rau sống gồm có nhiều loại và tùy sử thích của tùng người, mà ta nen chọn các loại rau sau: xà lách, rau thơm, diếp cá, cải xanh, lá lốt, đọt bằng lăng, đọt xoài, sôi nhái. Rau phải được rửa sạch, để ráo và xếp ra mâm. Rau nên ngâm trong nước có muối với nồng độ loãng và ngâm trong thời gian ngắn khoảng 3-5 phút để hạn chế các nguy cơ vi sinh vật.
Cách đổ cũng không khó. Ta chỉ cần bắt chảo nóng, cho dàu vào sôi lên ta cho bột vào vào cho nhưn cộng với tí giá và nấm vào úp vung lại để khoảng 2 3 phút ta lấy ra và làm tiếp cá khác. Nếu muốn bánh giòn hơn thì ta để khoảng 5 phút và lấy ra. Cái quan trọng để có chiếc bánh xèo ngon đó là nguyên liệu và cách pha bột.
Thế là ta đã có một chiếc bánh xèo thơm ngon và bổ dưỡng. hi vọng mọi người ai cũng thích nó.
Thuyết minh về món bánh xèo Nam Bộ – Bài làm 2
Trong các món bánh mặn của Nam bộ, bánh xèo là món phổ biến, được người ăn ưa thích nhất.
Ăn bánh xèo có đông người mới vui. vì khi làm bánh phải qua nhiều công đoạn nên cần nhiều người. Người ta phân công nhau bằng những câu vè vui vẻ như: “Người nào xấu xấu xay bột, lật hành. Người nào lanh lanh băm nhân, dò bánh…”
Muốn cho bánh ngon pháả chịu khó, chịu cực một chút. Bột bánh là phân quan trọng nhất, bánh cỏ ngon hay không là ở khâu này. Dân nông thôn không chịu loại bột gạo vô bịch sẵn, bày bán ơ chợ vì đó là gạo dơ. ngâm nước cho bã ra. te nhiêu nước rồi gạn lấy bột nên chất bột bị chua và lạt, không còn bổ dưỡng , thơm ngon. Muốn cho bột bánh xèo ngon phải là loại gạo thơm, gạo mới, ngâm trong một buổi hoặc một đêm rồi đem xay nhuyễn. Ngày nay có bột bánh xèo pha chế sẵn cũng tiện dụng nhưng phải trộn thêm theo công thức, một bịch bột bánh xèo pha thêm một bịch bột chiên giòn hoặc bột bắp và nước cốt dừa thì bánh mới béo giòn.
Dùng bột gạo tươi thì sau khi lược bột xong, pha thêm một bịch bột chiên giòn, nước cốt dừa, đường, muối sao cho độ béo ngọt theo dung khẩu vị người ăn, bỏ thêm hành lá xắt nhỏ, bột nghệ, trứng gà đánh nhuyễn. Người Nam bộ rất thích nước cốt dừa nên pha đậm đặcc càng ngon (mà vị béo cùa nước cốt dừa không có vị béo nào sánh kịp), bánh khi chín có nước cốt dừa rất dễ lấy ra.
Nhân bánh muốn ngon phải có nấm rơm, nấm hương, nấm kim chi hay nấm đông cô, tôm hoặc tép, thịt gà hay thịt vịt băm nhuyễn, giá sống và củ sắn, có người còn bỏ cá cơm dừa xắt sợi, hoặc đậu xanh nấu chín, nhưng hai loại này làm cho dễ ngán không ăn được nhiều. Nấm làm nhân bánh có thể thay đổi theo từng mùa. Mùa nấm rơm thì làm nấm rơm, không có nấm rơm thi hải nấm mèo trên các cây so đũa hoặc mùa mưa thì có bông điên điển…
Rau sống và nước mắm là những thành phần quan trọng làm cho bánh thêm ngon. Rau sống phải có đủ họ tộc như: diếp cá, xà lách, tần ô, húng cây, húng lủi, quế. không được thiếu lá cách và cai bẹ xanh (loại cải thân nhỏ). Chén nước mắm nêm nếm cho đủ độ mặn, ngọt, chua, cỏ màu đỏ cua ớt. màu vàng của nước mắm, màu xanh của xoài sống bằm nhuyễn và màu đỏ trắng của dưa của cải.
Khi tất cả vật liệu đã sẵn sàng thì người đổ bánh mới bắt đầu nổi lửa. Nếu lượng người ăn đông phải đổ hai chảo mới kịp đãi khách, ở miền quê, các bà nội trợ đổ bánh bằng chảo gang hay chảo bằng vỏ trái bom cắt ra, ớ thành phố có loại chảo không dính tương đối tiện lợi.
Khi chảo thật nóng thì đổ thử một vài cái xem mùi vị và độ đặc lỏng của bột vừa hay chưa, sau đó mới đổ thật sự.
Lấy miếng mỡ heo cắt hình vuông khoảng 3 em đảo qua chảo một lượt, bỏ tép hoặc tôm và thịt ba rọi xắt sợi nhỏ vào cháo, đảo cho đỏ lên hồng lên, tiếp đó đổ một vá hột lên chảo nghe xèo xèo rồi tráng đều cho tròn cái bánh mới khéo, lần lượt bỏ nấm, thịt gà, giá, củ sắn và đậy nắp lại. Hai phút sau, giở nắp ra, tiếp tục “dần trên lửa ” Bánh chín có màu vàng như mặt trăng rằm. Trên đó, màu đỏ của tôm, màu xanh của hành, màu nâu hoặc trắng của nấm. mùi thơm dậy của nước dừa và hột gà khiến cho chiếc bánh hấp dẫn đặc biệt. Bánh được xếp lại theo hình rẻ quạt, nóng hôi hổi trên chiếc mâm lót lá chuối hay trên chiếc đĩa sứ trang ngà.
Ăn bánh xèo nên dùng tay, không cần đùa nĩa gì cả. Dùng tay để cuốn bánh cho gọn và cảm nhận được độ nóng ấm của bánh mới thấy ngon miệng. Ăn bánh nên uống với nước trà nóng hoặc với bia, rượu mới tiêu được mỡ dầu. Vừa ăn. vừa đàm đạo chuyện trò, lúc đói bụng có người dám ăn cà chục bánh, có người ăn trừ cơm cả ngày.
ở Huế cùng có loại bánh tương tự nhưng bánh nhỏ hơn, độ giòn và vị béo kém hơn, có lẽ họ không thích nước cốt dừa như người Nam bộ.
Thành phố Hồ Chí Minh có những con dượng bày bán bánh xèo sát ngay đại lộ Một vài địa điểm có tiếng như bánh xèo A Phủ, Đinh Công Tráng với giá từ hai chục ngàn đồng đến ba, bốn chục ngàn đồng một bánh nhưng bánh của các nơi này dùng quá nhiều thịt, mỡ nên ăn không được nhiều.
Màu sắc đẹp. mùi vị hấp dẫn, chât dinh dưỡng cao. bánh xèo là món bánh độc đáo, đậm đà hương vị Nam bộ.
Thuyết minh về món bánh xèo Nam Bộ – Bài làm 3
Từ lâu bánh xèo đã trở thành loại bánh mang tính đặc trưng của vùng quê Việt Nam, đặc biệt ở miền Nam và miền Trung. Hiện nay bánh xèo rất nổi tiếng ở Việt Nam và cộng đồng người Việt trên khắp thế giới.
Bánh xèo là một món ăn dân dã, ra đời ở các vùng quê từ khá lâu. Không ai biết thời gian xuất hiện và thuộc miền xứ sở nào vì từ Huế trở vào phía Nam nơi nào cũng có.
Cái tên gọi “bánh xèo” cũng làm người ta nghĩ suy “có phải rằng tiếng xèo xèo khi đổ làm nên tên gọi của chiếc bánh”. Chiếc bánh ở từng vùng cũng khác nhau về kích cỡ và cách làm nhân: bánh xèo Huế, bánh xèo Phan Thiết thường nhỏ nhưng bánh xèo Nam Bộ lại khác hẳn, to và nhiều nhân. Nhất là ai đã về miền Tây Nam Bộ thưởng thức chiếc bánh xèo giòn rụm với đủ loại rau chắc khó thể nào quên.
Bánh xèo Nam Bộ thường thì mùa nào thức nấy, ngày thường bà nội trợ hay dùng giá hoặc củ sắn thái sợi cùng thịt ba chỉ, tép bạc làm nhân. Đến mùa mưa măng mọc, nấm mối rộ trong vườn, bánh xèo được thay nhân mới bằng măng tươi thái sợi, nấm mối xào ngon tuyệt cú mèo, đến mùa nước lên điên điển đơm bông, nhân bánh lại rực một màu vàng. Ngày nay trong các nhà hàng sang trọng bánh xèo được sáng tạo nên nhiều loại nhân khác nhau: nấm kim châm, hải sản, phi lê gà…cũng hấp dẫn không kém. Với chiếc bánh xèo đầy màu sắc lẫn mùi vị đó khi ăn lại được cuốn trong các loại rau xanh và chấm với nước mắm chua ngọt, trong có để cà rốt và củ cải trắng ngâm giấm. Rau xanh đủ loại, đủ thành phần từ trong vườn, dưới ruộng và cả ven sông: đọt lụa, lá cách, lá điều, đọt xoài, đọt cóc, đinh lăng, quế nước, sà lách, cải bẹ xanh, các loại rau thơm: tía tô, quế, húng lũi, húng cây…
Ðể được cái bánh xèo cho khéo là cả một nghệ thuật. Bánh có màu đặc trưng là sắc vàng của nghệ, thêm vị béo, hương thơm của nước cốt dừa, mép ngoài của bánh mỏng và giòn. Cái để lại dấu ấn cho bữa ăn bánh xèo chính là các loại lá để ăn với bánh. Từ cái vị chát chát, chua chua của đọt xoài non, bằng lăng, đến cái mùi hăng hăng của cải xanh, diếp cá, rau thơm…
Vượt ra khỏi biên giới quốc gia, bánh xèo đã được mang đi giới thiệu ở rất nhiều nơi trên thế giới và đã được rất nhiều người ưa thích không chỉ ở mùi vị đặc trưng của bánh mà còn giá trị dinh dưỡng cao ở những cái bánh xèo nóng hổi.
Thuyết minh về món bánh xèo Nam Bộ – Dàn ý
I. Mở bài:
Bánh xèo là một loại bánh Việt Nam, có bột bên ngoài, bên trong có nhân là tôm, thịt, giá đỗ, được rán màu vàng, nặn hình tròn hoặc bán nguyệt. Tuỳ theo từng địa phương tại Việt Nam mà bánh được thưởng thức với nét đặc trưng riêng. Thường có 2 phong cách : đổ bánh xèo giòn và bánh xèo dai.
II. Thân bài:
a) Cách làm bánh
1) Đậu xanh ngâm nước nóng ấm khoảng 1 tiếng cho bóc vỏ. Đãi vỏ sạch, hấp/luộc chín sao cho đậu vẫn còn nguyên dạng hạt, không bị bể.
2) Giá rửa sạch để ráo.
Hành lá rửa sạch cắt nhỏ.
3) Tôm lột vỏ, làm sạch đường chỉ. Ướp tôm thịt với một tí xíu muối, tiêu, tỏi ép nhỏ khoảng nửa tiếng cho ngấm gia vị.
4) Cho bột gạo, bột bắp, muối, bột nghệ và nước soda vào trộn đều. Cho hành lá vào. Bỏ hỗn hợp vào tủ lạnh khoảng nửa tiếng trước khi làm.
5) Chiên bánh :
– Chảo nóng, cho một ít dầu vào. Dầu nóng, cho ít lát thịt heo và vài ba con tôm vào xào chín tái, thơm. Dùng vá tròn to( loại múc canh) múc một vá hỗn hợp bột bánh xèo đổ tròn vào chảo. Vừa đổ vừa quay cán chảo cho bột chạy dàn đều một lớp mỏng khắp đáy chảo.
– Rắc một ít đậu xanh đều lên bề mặt, cho giá vào phần nửa cái bánh. Đậy nắp lại, đợi khoảng 2~3 phút cho bánh chín vàng. Dùng vá dẹp bẻ gập bánh lại làm đôi. Lấy bánh ra.
– Cứ thế lập lại cho đến khi hết bột và tôm thịt rau.
b) Cách thưởng thức bánh
– Khi ăn cuốn với rau sà lách hoặc cải cay và rau thơm, chấm với nước mắm pha chua ngọt.
– Pha nước chấm bánh xèo sao cho có đủ vị ngọt-chua-cay nhưng rất nhạt, nhạt đến độ có thể húp chén mắm như canh vậy. Tham khảo cách pha nước chấm ở đây. Tuy nhiên, phải gia giảm đường-nước và nước mắm sao cho thoả điều kiện trên. Mình thường pha theo tỉ lệ gồm : 2 phần đường, 1 phần mắm và 4 phần nước.
– Vị ngọt của chén nước mắm chấm bánh xèo lấy từ nước dừa tươi và đường (nếu không có dừa tươi thì dùng nước dừa tươi đóng lon/ hoặc không nữa thì phải dùng đường thay thế)- chua của chanh hoặc dấm -cay của ớt- thơm của tỏi.
– Nếu không có nước dừa thì phải dùng nước nấu sôi để nguội cũng được nhưng dĩ nhiên là chất lượng sẽ thay đổi
– Tại Huế, món ăn này thường được gọi là bánh khoái và thường kèm với thịt nướng, nước chấm là nước lèo gồm tương, gan, lạc. Tại miền Nam Việt Nam, bánh có cho thêm trứng và người ta ăn bánh xèo chấm nước mắm chua ngọt. Tại miền Bắc Việt Nam, nhân bánh xèo ngoài các thành phần như các nơi khác còn thêm củ đậu thái mỏng hoặc khoai môn thái sợi.
Các loại rau ăn kèm với bánh xèo cũng rất đa dạng. Cầu kỳ nhất là ở các vùng miền Trung Việt Nam, ngoài rau sống, còn thêm quả vả chát, khế chua .. Bởi vậy, dân sành ăn cứ thấy ngờ ngợ như món này thực sự được bắt nguồn từ Huế.
– Bánh xèo Phan Thiết khác với bánh xèo ở những nơi khác là bánh nhỏ chỉ bằng một nửa và không cuốn với rau xà lách mà ăn chung với nước mắm chín (nước mắm đã được giã với tỏi và ớt).
III. Kết bài :
– Bánh Xèo là một trong những món ăn rất “đậm đà” hương vị của người Việt Nam. Ngày nay, bánh Xèo đã được quảng bá ra bên ngoài không gian nước Việt. Nhiều nghệ nhân làm bánh như cụ Mười Xiềm đã đi Mỹ để thực hiện việc làm món bánh Xèo.
– Ngày nay, cuộc sống xuất hiện nhiều thị hiếu ẩm thực đa dạng. Tuy nhiên, món bánh Xèo vẫn được trân trọng. Bánh Xèo vẫn ngon nhờ vào cách phối hợp dinh dưỡng, đa dạng có chất béo, đạm, chất xơ v.v… Món ngon Bánh Xèo góp phần tôn lên vẻ đẹp và tính khoa học của ẩm thực Việt Nam.
Cách Làm Món Cá Kho Tộ Cực Ngon
Cá cơm kho tộ là một món ăn quen thuộc cá được kho kẹo lại, vị ngọt của cá, hương thơm của tiêu, cay nồng của ớt tất cả vị ngon dồn hết vào trong cái tộ.
1/2 kg thịt ba rọi
5 củ hành tím
5 đầu hành lá
Gia vị: nước mắm, đường, bột nêm, tiêu hột, tiêu xay, ớt bột, ớt tươi
Xát 1 ít muối lên cho bong hết các vảy cá còn dính, ngâm cá trong nước cùng với muối và dấm khoảng 5 phút cho ra hết chất tanh, vớt ra xả thật sạch lại bằng nước lạnh. Cho cá vào tô, chế sữa tươi vào cho ngập cá. Thịt ba rọi ngâm nước muối rửa sạch lại cắt sợi kích thước như con cá cơm. Thịt mỡ cắt hạt lựu , cho mỡ vào nồi đặt lên bếp thắng mỡ, thắng tóp mỡ cho thật dòn, vớt tóp mỡ qua 1 bên để riêng. Hành tím bằm nhuyễn. Đầu hành lá giả nhuyễn.
Bắt nồi nhỏ lên bếp cho ít mỡ vừa thắng vào chảo hoặc là dùng dầu ăn. Cho hành tím vào nồi nhỏ phi cho thơm và vàng đều, cho nước vào nồi cùng nước mắm, đường, bột nêm, nước màu dừa vào nấu cho sôi lại nêm nếm vừa miệng. Sau khi hỗn hợp nước gia vị đã sôi lại nêm nếm thật vừa miệng theo khẩu vị gia đình. Sau cùng thì cho ớt, đầu hành lá , tiêu hột vào nấu cho sôi.
Vớt cá ra khỏi sữa tươi cho vào tộ cùng với thịt ba rọi, trộn đều thịt ba rọi và cá cho xen lẫn với nhau, trên cùng là phần tóp mỡ đã phi vàng dòn. Đặt tộ cá lên bếp, đỗ nước hỗn hợp gia vị đang sôi vào tộ cá, canh đỗ hỗn hợp nước cho đầy tộ cá. Mở lửa lớn cho nồi cá sôi sùng sục. Hạ lửa thật nhỏ để lữa riu riu cho đến khi cá cạn
Khi ăn nếu bạn muốn cá thơm bén nồi thì cho tộ cá vào lò nướng bật lửa 400 độ F nướng khoảng 5- 8 phút tuỳ lò. Cá sẽ rất thơm và ngon.
Tổng hợp các bài viết thuộc chủ đề Thuyết Minh Về Cách Làm Món Cá Kho Tộ xem nhiều nhất, được cập nhật mới nhất trên website Rafs.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!